Bản chữ Hán viết bằng unicode
 
客舍元旦
 
歲墓蹉跎珥水東, 
春來不覺坐春風。 
平章綠野千村外, 
管領青陽兩袖中。 
吏退垂簾公署靜, 
花開憑几客心空。 
縱觀便有神交者, 
遼廓雲間未定鴻。

阮勸 


KHÁCH XÁ NGUYÊN ÐÁN

Tuế mộ tha đà Nhị thuỷ đông, 
Xuân lai bất giác toạ xuân phong. 
Bình chương lục dã thiên thôn ngoại, 
Quản lĩnh thanh dương lưỡng tụ trung. 
Lại thoái thuỳ liêm công thự tĩnh, 
Hoa khai bằng kỷ khách tâm không. 
Túng quan cánh hữu thần giao giả, 
Liêu khuếch vân gian vị định hồng.

NGUYỄN  KHUYẾN


TẾT NƠI QUÁN TRỌ

Cuối năm nấn ná bến sông Hồng, 
Xuân đến nào hay giữa gió đông. 
Ngắm cánh đồng xanh thôn xóm trải, 
Thu hơi dương ấm ống tay lồng. 
Buông mành phòng vắng, không còn lại, 
Tựa ghế hoa cười chẳng bận lòng. 
Có bạn thần giao kia đã đến, 
Tầng mây lơ lửng cánh chim hồng.
 
(Người dịch: Trần Văn Nhĩ)
 
 

Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại làng Văn Khê, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Hà. Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên , đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị . Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Hương Nguyên) trường Hà Nội. Năm sau ông trượt thi Hội, thi Đình nên phẫn chí ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu 1884 và qua đời tại đấy ngày 5 tháng 2 năm 1909. Ông để lại các tập thơ văn Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ ...