Bản chữ Hán viết bằng unicode

志誠通聖 

世事迴頭已一空, 
江山無淚泣英雄。 
萬民奴隸強權下, 
八古文章醉夢中。 
長此百年甘唾罵, 
不知何日出勞籠。 
諸君未必無心血, 
請向斯文看一通。

潘周楨 



CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH 

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không, 
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng. 
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ, 
Bát cổ văn chương tuý mộng trung. 
Trường thử bách niên cam thoá mạ, 
Bất tri hà nhật xuất lao lung? 
Chư quân vị tất vô tâm huyết, 
Thỉnh hướng tư văn khan nhất thông. 


PHAN CHU TRINH



CHÍ THÀNH CẢM ÐẾN THẦN THÁNH

Thế sự quay đầu chỉ thấy không, 
Giang sơn ai kẻ khóc anh hùng. 
Vạn dân nô lệ cho người dắt, 
Tám vế văn chương gửi giấc mòng. 
Nếu mãi chịu cam lời thoá mạ, 
Ngày nào ra khỏi chốn lao lung? 
Các anh đâu phải không tâm huyết, 
Xin đọc mấy lời chút cảm thông! 

Ðiệp Luyến Hoa dịch



Lòng Thành Thông Suốt Đạo Thánh

Cuộc đời ngoảnh lại vắng không, 
Giang sơn nào khóc anh hùng được đâu; 
Cường quyền dậm đạp mái đầu, 
Văn chương tám vế say câu mơ màng. 
Tháng ngày uất hận đành cam, 
Sổ lồng tháo cũi biết làm sao đây? 
Những ai tâm huyết vơi đầy, 
Dốc lòng văn đạo, thơ này thấu cho.

(Bản dịch của Báo Tân Dân số 3 năm 1949)
 
 
 

Phan Chu Trinh (Phan Châu Trinh) tự Tử Can, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, quê quán Quảng Nam sinh tháng 8 năm 1872 . Đậu Phó Bảng năm 1901, Cụ được bổ làm quan ở Huế, nhưng đã từ quan theo đuổi cuộc cách mạng cải tiến dân sinh và dân trí với chủ trương “bất bạo động”. Cụ đã vận động và cổ súy phong trào Duy Tân, mở trường dạy học, truyền bá Quốc Ngữ, mở mang công thương nghiệp, theo nếp sống văn minh Âu Tây . Năm 1906, Cụ trốn qua Nhật theo phong trào Đông Du, nhưng bất đồng chính kiến với chủ trương bạo động của nhà Cách Mạng Phan Bội Châu, Cụ về nước tiếp tục hoạt động, bị Pháp bắt, bị triều đình Huế kết án tử hình, nhưng sau đó được giảm án đầy ra Côn Đảo. Năm 1911, sau khi được tha, Cụ Phan Chu Trinh sang Pháp. Cụ Phan bị bệnh mất ngày 24 tháng 3 năm 1926 tại Sài Gòn .