Linh hồn

Lê Sỹ Minh Tùng


Linh hồn, tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức. Socrates cho rằng linh hồn là tinh thể (Essence). Platon lý luận rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Trong khi đó, Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính cắt không còn nữa. Mỗi tôn giáo, mỗi tín ngưỡng có quan niệm khác nhau về “linh hồn”, nhưng thông thường linh hồn thường được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, phần tinh thần của con người. Xa hơn nữa, các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi Giáo đều cho rằng linh hồn là phần thiêng liêng, bất diệt. Linh hồn là do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống. Nếu một người biết thờ kính Thượng đế thì khi chết linh hồn đó sẽ được về sống hạnh phúc đời đời trên Thiên đường. Ngược lại, nếu làm ác, không tin vào Thượng đế thì linh hồn đó khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục để gánh chịu mọi sự khổ đau.
Nói chung, các tôn giáo hữu thần đều cho rằng có một linh hồn bất tử trong con người. Nếu khi sống làm như lời Chúa dạy, thì sau khi chết người ấy được Chúa cứu rỗi lên Thiên đường hoặc ngược lại thì bị đày xuống hoả ngục. Cái phần phi vật chất được lên thiên đường hay xuống hoả ngục đó, họ gọi là linh hồn.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo (Ấn độ giáo ngày nay) tin rằng có một linh hồn hay bản ngã (Atman=tiểu ngã) trường tồn. Đối với Ấn độ giáo, cặp phạm trù cơ bản nhất là tiểu ngã (Atman) và đại ngã (Brahman). Đại ngã là cái bản ngã vũ trụ, cái tuyệt đối. Nếu nhìn dưới góc độ tôn giáo, đại ngã là yếu tố thần linh được bao chứa và thấm nhuần trong vạn vật. Còn tiểu ngã là cái bản thể của mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng tiểu ngã và đại ngã là nền tảng của vũ trụ quan, trong khi đó thuyết nghiệp báo và luân hồi là nền tảng nhân sinh quan. Thuyết luân hồi của Ấn độ giáo quan niệm rằng cái chết của con ngưởi là sự chuyển hóa sang kiếp sống khác, sự tái sinh trong luân hồi là do nghiệp báo mà ra. Nói cách khác, bất cứ hành động nào của con người cũng phải trả giá, nó toàn năng ngoài ý muốn con người và nó theo đuổi con người không bao giờ lầm lẫn. Sau cùng thuyết giải thoát cho rằng tuy rất khó, nhưng con người có thể tránh khỏi luân hồi nghiệp báo bằng cách nỗ lực gắng sức dập tắt động lực đẩy bánh xe nghiệp báo thì có thể đi đến giải thoát. Và lúc đó tiểu ngã sẽ hòa đồng vào đại ngã của vũ trụ. Tóm lại, Bà la môn giáo cho rằng thờ phượng các Thượng đế (đại ngã) cũng chính là thờ phượng tiểu ngã (Atman) của mình cho nên tiểu ngã là linh hồn và đại ngã (Thượng đế)(Brahman) là chúa tể các linh hồn đó.
Trong khi Ấn Độ giáo (Bà la môn giáo) tuyệt đối tin vào một linh hồn, một tiểu ngã thường hằng bất biến thì sự xuất hiện của Đức Phật đã thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ. Thuyết Duyên Khởi của Đức Phật với chân lý “Vô Ngã” , một trong ba pháp ấn (Vô thường,Vô ngã, Khổ) của giáo lý Phật Đà, đã phủ định cái Ngã trong Ta của Bà la môn giáo. Ấn Độ giáo càng phát triển vun bồi cho “tiểu ngã” bao nhiêu thì giáo lý đạo Phật chủ trương càng xa lìa, đánh đổ nó để trở về với trạng thái không dính mắc mà có thanh tịnh tự tại Niết bàn. Vì thế con đường giải thoát của đạo Phật là phải phá chấp, trong thì phá chấp ngã, ngoài thì phá chấp tướng, trong ngoài tự tại là có thanh tịnh Niết bàn.
Trong khi đó, người Trung Hoa tin rằng sau khi chết thì linh hồn sẽ bị ngưu đầu mã diện đưa về cõi âm. Sau khi được sự phán xét của Diêm vương, linh hồn thiện đi đầu thai ở dương thế còn linh hồn ác bị đọa đày đời đời trong hỏa ngục. Do đó, người Trung Hoa quan niệm rằng “sinh ký tử quy” nghĩa là “sống gửi, thác về” cho nên dương thế chỉ là cõi tạm trong khi cõi âm mới là cõi sống thật sự do vậy mới có tập tục đốt giấy vàng bạc để cho linh hồn ông bà tiêu xài ở cõi âm. Nhưng thử nghĩ lại đã ở trong hỏa ngục thì làm sao tiêu xài? Cùng quan niệm đó, vào thế kỷ thứ 18, thi hào Nguyễn Du (Tố Như) có viết trong truyện Kiều như sau:
“…Rằng: Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Phách mà thi hào Nguyễn Du nói ở đây là thân tứ đại sẽ tan rã, tiêu mất. Cái duy nhất còn lại của con người mà thi hào gọi là “tinh anh” thì chính là “linh hồn” mà dân gian thường gọi.
Tuy có rất nhiều học thuyết về Thượng đế, linh hồn, nhưng Phật giáo phủ nhận tất cả. Phật giáo không chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất tử hay một bản ngã thường tại. Vậy Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào?
Đức Phật dạy rằng con người là sự tập hợp của hai thành phần chính gọi là danh và sắc. Danh là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và thức. Sắc gồm có hai, đó là nội sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Theo quan điểm của đạo Phật, mọi sự vật hiện tượng, trong đó có cả con người, đều chịu sự chi phối của quy luật biến dịch, thay đổi của vũ trụ. Định luật đó gọi là “vô thường”. Chính vì bản chất của mọi sự vật hiện tượng là không thật, do các duyên hội tụ mà thành, nên chúng mới chịu sự chi phối của định luật vô thường nầy. Thân (sắc) hay tâm (danh) của con người cũng phải chịu sự chi phối, tác động này. Tất cả mọi sự vật hiện tượng, dù là các ý niệm hay tư tưởng đều luôn luôn thay đổi nên không có một cái gì gọi là một linh hồn bất tử được. Do vậy, Phật giáo phủ nhận những quan niệm về linh hồn bất tử vì những quan niệm đó hoàn toàn không phù hợp với thuyết “duyên sinh, duyên diệt” của đạo Phật. Thật ra trên thế gian này không có cái gì gọi là trường tồn, bất tử cả bởi vì tất cả mọi sự vật đều sinh diệt vô thường. Cho dù to lớn như những hành tinh, những dãy Thiên hà hay bé nhỏ như hạt bụi, nguyên tử thì không có một sự vật nào là không do nội nhân, ngoại duyên hội tụ mà tồn tại. Vì sự tồn tại là do nhân duyên cho nên mọi sự vật không có tự thể, không có tự tánh nghĩa là tất cả đều là vô ngã tức là không. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân duyên ly tán, gọi là diệt thế thôi.
Không những luật vô thường áp dụng cho thế giới vật chất hữu vi, mà ngay cả trong thế giới tư tưởng (tinh thần) thì tất cả cũng đều sinh diệt vô thường cả. Nhân sinh vũ trụ thay đổi từng giây, từng phút, từng sát na, từng ý niệm. Ngày nào chúng ta còn trai trẻ tráng kiện mà bây giờ lưng mõi, gối mòn, lưng còng má hóp, nhớ trước quên sau, nếu không là vô thường thì còn là gì? Cái tâm trước đâu có giống cái tâm sau cho nên tư tưởng liên tục sinh diệt trong ta, thế không là vô thường thì là gì?
Vì vậy khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra và phủ nhận luôn cả ý nghĩa linh hồn (Soul) là do Thượng đế ban cho ta. Ngay cả khái niệm về một linh hồn bất tử hay ngay cả một bản ngã thường tại cũng bị Đức Phật phủ nhận . Sau khi đắc tứ thiền, Đức Phật với Tuệ Minh Sát và trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác thấy biết như thật rằng từ con người cho đến nhân sinh vũ trụ tất cả đều là do nhân duyên, cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt, nhân này quả nọ mà tạo thành chớ tuyệt đối không có ai là tác giả cả. Do đó Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế trong cuộc sống và dĩ nhiên không có Thượng đế thì làm gì có ai cho ai linh hồn.
Dựa theo các tôn giáo thần quyền, linh hồn là một thực thể vĩnh hằng do Thượng đế ban cho loài người cho nên linh hồn có thể chuyển từ thân xác này sang thân xác khác hay từ cõi này sang cõi khác. Ngược lại, đối với đạo Phật thì cái tâm còn không có thật thì làm gì có linh hồn. Tâm nhà Phật gọi là Thức. Thức là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý của con người mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Thí dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi vị hay thân cảm xúc hoặc ý duyên với pháp trần thì có biết bao tư tưởng đưa vào tâm để cho ta cái biết. Phật giáo dùng chữ sát na để chỉ cho đơn vị thời gian và một sát na xảy ra rất nhanh bởi vì mỗi một cái nháy mắt có thể có hàng trăm sát na cũng như đơn vị nhỏ nhất để đo thời gian của nhân loại ngày nay là giây.
Trong sách Strangers to Ourselves: Discovering the Adaptive Unconscious viết bởi giáo sư Timothy D. Wilson trang 24 có dẫn chứng rằng: Cứ mỗi giây, năm giác quan của con người là mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, miệng nếm và thân cảm xúc tiếp nhận khoảng 11 triệu ý tưởng từ bên ngoài đưa vào tâm. Trong 11 triệu ý tưởng đó thì mắt đã thâu nhận trên 10 triệu ý tưởng để chuyển vào hệ thống trung ương não bộ. Nhưng hệ thống thần kinh não bộ trong một giây chỉ có thể phân tích 40 ý tưởng. Cho nên câu hỏi các nhà khoa học đặt ra là 10,999, 960 ý tưởng không được bộ óc phân tích kia sẽ đi về đâu và sẽ có tác dụng hay ảnh hưởng đến tầng ý thức của con người như thế nào? Do đó nhà tâm lý học Sigmund Freud mới giới thiệu tảng băng tâm lý mà trong đó ông ta lý luận rằng phần tiền ý thức (trí nhớ, và lưu giữ kiến thức) và phần vô thức chiếm đa phần trong tâm tư của con người. Vô thức luôn hối thúc, lấn áp ý thức để con người có những tư tưởng, lời nói hay hành vi không thể kiểm soát được.
Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm.
Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm hồn của chúng ta vì thế Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có cái Ta. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Ta hay cái của Ta tức là hoàn toàn vô ngã. Thí dụ, ban đêm nhìn ra xa lộ ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy ánh sáng đèn chạy dài như dòng sông uốn khúc. Nếu bây giờ lấy hết những chiếc xe kia đi thì dòng sông ánh sáng đó sẽ không còn. Nói cách khác nếu không có những ánh sáng từ những chiếc xe kết nối lại thì không bao giờ có ánh đèn sáng dài đến thế.
Cái tâm con người thì cũng thế, tuy mỗi sát na tư tưởng rất nhanh, nhưng vì kết nối liên tục những sát na tư tưởng đó thì chúng ta có một chuổi thức mà con người lầm lẫn cho là có tâm.