Gửi Trương Tửu
Nguyễn Vỹ

viết trong lúc say
Nay ta thèm rượu nhớ mong ai!
Một mình rót uống chẳng buồn say!
Trước kia hai thằng hết một nậm,
Trò chuyện dông dài mặt đỏ sẫm.
Nay một mình ta, một be con:
Cạn rượu rồi thơ mới véo von!

Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà coi đồng tiền như cái rác!
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huynh hoang,
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Ðông, chửi Tây, chửi tất cả
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê,
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!!

Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút nói văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,
Và nhìn chúng mình hì hụi viết,
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh,
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh!
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng nguyên, anh Tể tướng?
Và anh bên võ, tôi bên văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục,nát, thối ?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công .
Ðều được an vui hớn hở lòng ?
Bao giờ chúnh mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho lịch sử !
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhổm dậy cười say sưa
Ðể xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên đất nước ?
Ðể cho toàn thể dân Việt Nam
Ðều được tự do muôn muôn năm ?
Ðể cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than tang tóc ?
Chứ như bây giờ là trò chơi,
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc,
Triết lý con tiều, văn chương cóc!(1)
Con tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán văn, ngày tháng qua!(2)

Cho nên tôi buồn không biết mấy!
Đời còn nhố nhăng ta chịu vậy!
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,
Bực chí thàng say mấy cũng vừa!
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ!
Chơ nước cờ cao lại gặp bĩ!
Rồi đâm ra điên, ra vẩn vơ,
Rút cục chỉ còn mộng với mơ!

(Viết rồi hãy còn say)


* Chú thích: (1)-(2) :
Hồi bấy giờ Trương Tửu viết giúp báo "Ích hữu" của Lê Văn Trương;
Nguyễn Vỹ giúp báo "Phụ nữ" của bà Nguyễn Thị Thảo.
* Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 ở làng Tân Hội , huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Đã từng học qua các trường ở Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Ông từng cạo đầu đi tu, gánh cát ở bãi sông Cái, từng bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn. Về sau Ông sống bằng nghề viết văn. Cộng tác: Văn học tạp chí 1935, Hanoi báo, Phụ nữ. Đã xuất bản: Tập thơ đầu năm 1934, Hoang Vu (1962), năm 1958 chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông .